Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014

MÙA THU QUY NHƠN

Xin nói ngay dù rằng vẫn có cây bàng lá đỏ nhưng mùa thu Quy Nhơn là mùa mưa, không thích hợp lắm cho việc đến du lịch ở đây.





Nhưng nếu đã lỡ đến rồi (như các bà hưu trí này đi máy bay giá rẻ, hãng hàng không cho đi ngày nào… mình đi ngày đó… kha kha kha… Ngon bổ mà rẻ là phải vậy thôi) thì cũng đi chơi tốt thôi. Vì  ông Trời ở Quy Nhơn là ông Trời… tuổi “teen”, còn teen hơn cả ông Trời ở Sài Gòn. Thoắt nắng rồi thoắt mưa, cả ngày như vậy. Một chút xíu buổi sáng đã thấy ông Trời đổi mặt rất nhanh.





Vì vậy, đi chơi cứ cầm theo một cây dù, khi nào mưa thì gương dù lên đứng lại, nhanh thì một chốc, lâu thì một lát, tạnh mưa lại đi tiếp.



Cảm nhận đầu tiên, Quy Nhơn đẹp một cách bình yên, sáng sớm người địa phương đi tắm biển để xe trên bờ, khóa lại rồi đi xuống biển tắm, không có bãi giữ xe ở đây.



Từ mờ sáng, trên bãi biển đã thấy có trực cứu hộ và các anh cứu hộ có mặt suốt trên bãi biển đến khi tắt nắng không còn ai xuống biển tắm nữa. Trời rạng một chút là nhân viên vệ sinh đi lên đi xuống nhặt rác trên bãi biển và cũng có mặt cả ngày như vậy.



Sáng sớm đường dọc bờ biển đầy người đi bộ tập thể dục,



ở có mấy ngày nhưng các buổi sáng đi bộ trên bãi biển đều thấy có một người ngồi ngắm bình minh trên biển,



có một lúc ra biển thấy một con mòng biển đứng yên trên tảng đá gần bờ, đất lành chim đậu.



Biển Quy Nhơn hình vòng cung, đẹp như bất cứ bờ biển nào dọc miền Trung, chỉ tiếc cát không được trắng, nên màu nước biển không đẹp như Nha Trang hay Đà Nẵng.







Đặc biệt có một số bãi tắm không có cát mà trên bãi là những viên đá hay những tảng đá tròn, như bãi Hoàng Hậu ở Ghềnh Ráng-Tiên Sa.



Tên Tiên Sa từ một truyền thuyết dân gian về một thiếu nữ vì tình yêu đã bỏ trốn khỏi sự truy đuổi của một tên cường hào ác bá, chạy đến đây thì giông gió nổi lên và khe núi nứt ra cho nàng trốn vào. Còn gọi là bãi Hoàng Hậu vì nơi đây là bãi tắm của Nam Phương Hoàng Hậu, chỉ hơi thắc mắc sao hoàng hậu chọn chi bãi tắm hơi… ác, đá tròn và trơn kiểu này, quân lính khiêng kiệu xảy chân trượt mà nghiêng kiệu thì có mà bay đầu!





Một bãi tắm khác cũng đầy đá tròn ở Eo Gió - Nhơn Lý. Gọi là Eo Gió, hay Eo Cửa Gió vì đấy là cái hõm như yên ngựa, với những rặng núi đá cao uốn cong tạo thành một eo biển hút gió tuyệt đẹp.  (Cục xà bông không thể chụp toàn cảnh Eo Gió nên xin phép mượn ảnh trên Internet để minh họa cho rõ)


(Ảnh trên Internet-Trí Nguyên)

Để ra sát bãi biển Eo Gió leo qua một dốc đá, đầu tiên là một bãi cỏ xanh rộng, trẻ con có thể mang banh ra chơi ở đây.



Và Eo Gió hiện ra trước mắt.





 Xa bờ một chút, bãi đá nhấp nhô tạo hình con cá sấu khổng lồ có đầu cất cao trên biển. Bà con ở đây quen gọi con sấu đá này là hòn Mòng.



Chạy dọc theo chân núi từ tây sang đông là một bãi đá trứng lớn, nhỏ đủ màu sắc, người địa phương gọi là bãi "đá đẻ". Vì năm nay nhặt đi, năm sau lại có nhiều như cũ.



Ở đây còn có một hồ nước ngọt  gọi là giếng Tiên, nước từ vách đá chảy ra. Một bác người địa phương đi tắm biển về thấy cả bọn đang hì hục leo lên một dốc đá để ra Eo Gió, nhiệt tình hướng dẫn, nghe bác ấy nói một tràng các từ phần lớn mang âm e và âm ơ… và  không hiểu gì hết. Sau khi được dịch lại, đại khái là bác nói ra biển tắm rồi sau đó vòng qua dãy núi bên cạnh sẽ có một cái hồ nước ngọt (giếng Tiên) để tắm lại rồi mặc quần áo đẹp vô đi chơi.
Ái chà, từ lúc nhỏ vẫn  nghe câu ca “Muốn ăn bánh ít lá gai. Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi”, từ đó đến giờ vẫn nghĩ rằng đó là nói về đường xa địa lý, nhưng bây giờ đứng ở đất này mới hiểu thêm đó còn là nỗi xa về phương ngữ. Chỉ đi qua một cái đèo Cù Mông mà đôi khi chẳng thể hiểu nhau, khoan hãy nói về phương ngữ, chỉ mới ở cách phát âm đã dễ hiểu lầm nhau rồi. Một ông bạn nhạc sĩ kể chuyện ngồi uống cà phê vĩa hè ở Sài Gòn bắt chuyện với một bạn thanh niên Bình Định. Hỏi thăm: “Bây giờ cháu làm gì?”. Trả lời: “Dẹ, chầu rày chéo lèm thuơ”. “A, hay quá. Cháu còn ba má không? Ba cháu làm gì?. ““Dẹ, hầu xưa  be chéo cũng lèm thuơ”. “Ái chà, cháu có anh em không? Anh cháu làm gì?”. “Dẹ, cũng giống be chéo với chéo, nẫu cũng lèm thuơ”. “A, vậy là cả nhà cháu là gia đình nghệ sĩ rồi. Chú cũng là nhạc sĩ đây”. Thật tình là bạn thanh niên “nhà thuơ” đó cũng ngơ ngác, chắc không hiểu sao tự nhiên được gọi là gia đình nghệ sĩ.
Thật ra ông bạn nhạc sĩ của mình hiểu lầm là nhà thơ cũng có lý do, Bình Định là đất của các nhà thơ nổi tiếng: Xuân Diệu, Yến Lan quê gốc Bình Định, ngoài ra Bàn thành tứ hữu của Bình Định là Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan. Mộ Hàn Mặc Tử bên cạnh dốc Mộng Cầm ở Ghềnh Ráng.



Bình Định đất võ, trời văn, nói chuyện Phú Xuân không thể không trở về với lịch sử, sẽ để dành những nơi lịch sử đã được đi qua cho lần kể chuyện tới.
Trở lại với cảnh thiên nhiên, nước biển mặn bên ngoài, sau núi là những cánh đồng mạ xanh ngắt của nguồn nước ngọt các dòng sông Côn, Lại Giang, La Tinh và Hà Thanh.





Và phải nói đến thắng cảnh Hầm Hô ở Sơn Tây. Nằm trong lòng sông Kút đổ ra sông Kôn, Hầm Hô là nơi gặp gỡ của hai nhánh sông  nhỏ Đồng Hưu và sông Cát đổ vào sông Phú Phong. Người dân nơi đây giải thích rằng, vì có một thác nước cao chừng sáu, bảy mét, đổ vào một hầm đá rộng, phát ra tiếng kêu ầm ồ như tiếng hô báo cho người chèo bè biết sắp tới chỗ nguy hiểm, nên gọi là Hầm Hô. Thắng cảnh là cả một khúc sông dài tới gần 3km,  có dòng nước quanh năm xanh biếc, vẻ đẹp Hầm Hô thật kỳ vĩ. Hai bên bờ sông cây nguyên sinh rợp bóng mát, nước sông cuộn chảy quanh co theo các ghềnh thác, lòng sông có những dãy đá Hoa Cương đủ  mọi hình dáng đã làm cho trí tưởng tượng của con người đặt tên cho đá rất phong phú: Đá Thành, Đá Bàn Cờ, Đá Chùm, Đá Dựng, Đá Trải, Cửa Sanh, Cửa Tử, Thác Cá Bay, Vũng Cá Rói, Hòn Trào, Hòn Lò Rượu, Dấu Chân Khổng Lồ…







Đoạn có một bãi đá chồng chất lên nhau, liên tưởng như có một người khổng lồ đổ cả một thúng đá xuống lòng sông, dân trong vùng gọi đây là khúc sông Trời Lấp.







Tại ngã ba sông Hầm Hô, là công trình thủy lợi để đưa nước tưới cho hàng ngàn mẫu ruộng, còn có tên gọi đập Lộc Đổng, đập Lộc Giang. Với địa hình sông nước, núi đá khắt nghiệt, người xưa đã dùng gỗ, đá, đất, lá bồi đắp thành con đập ngăn sông, dùng củi đốt cùng với muối trên tầng đá gốc cho vỡ dần ra từng mảnh làm thành kênh đầu mối, với xe đẩy cút kít, bên, xà ben chủ yếu bằng gỗ cứng (lúc ấy đò sắt hiếm) bàn tay con người lúc ấy đã đào đắp, vận chuyển hàng chục vạn khối đất cát làm thành hệ thống kênh mương dài 10km từ cách đây 2 thế kỷ. Bây giờ một đập bê tông vững chắc được xây dựng thay cho đập cũ ngày xưa, bờ đập làm cho nước dâng lên thành một dòng kênh êm ả, tạo thành bến đò cho thuyền đưa khách lại qua, làm lối đi sang bên hữu ngạn.



Đi thuyền chỉ từ bến đò đến khúc sông Trời Lấp, nếu muốn đi tiếp hết thắng cảnh Hầm Hô sẽ đi đường bộ. Bầy tui đi cả ngày thấm mệt chỉ ngồi thuyền cởi ngựa xem hoa thắng cảnh Hầm Hô vậy mà cũng ngất ngây.



Trên đường về đi qua cầu Thị Nại, cây cầu vượt biển dài nhất nước cho đến thời điểm này, dài gần 2,5km, rộng 14,5m, có 54 nhịp. Cầu nối thành phố Quy Nhơn với bán đảo Phương Mai, định ngắm một hoàng hôn trên cầu Thị Nại nhưng buổi chiều đó trời không có nắng.





Cầu bắc ngang qua đầm Thị Nại, đầm lớn nhất của Bình Định, nằm phía Đông Bắc Quy Nhơn, là đầm lớn chạy dài mười cây số, bề rộng tới gần bốn cây số. Đầm này đã từng có thời gian mang tên chữ là Hải Hạc Đàm, nhưng trong dân gian thì từ lâu vẫn gọi là đầm Thị Nại. Đó là cách gọi tắt của một địa danh Chàm, nguyên gốc tiếng Phạn là CriVinaya đã được phiên âm qua tiếng Hán thành Thị-lị-bì-nại. Các nhánh của sông Kôn, sông Hà Thanh đều chảy về đây. Nước đầm thông với biển bằng một cửa hẹp có tên cửa Giã. Là nơi gặp nhau giữa nước biển mặn và nước ngọt phù sa các dòng sông, chúng tôi đã gặp may khi bắt gặp một lằn ranh rõ rệt phân đôi trên mặt đầm. Thiên nhiên thật kỳ diệu.





Đêm về cầu Thị Nại lung linh dưới ánh đèn, rất tiếc cả 4 tối ở đây trời đều mưa, không đi ngắm cảnh cầu Thị Nại ban đêm được, mượn ảnh trên Internet để minh họa một trong những niềm tự hào của người Quy Nhơn.


(Ảnh trên Internet-Đào Tiến Đạt)

Không xem đèn trên cầu được nhưng buổi tối Quy Nhơn ở ngay nơi bầy tui ở cũng rất lung linh.



Đọc tiếp ...

PHÚ XUÂN - ĐỒ BÀN

Bình Định trước khi biết đến như một nơi có nhiều thắng cảnh du lịch, thì đó là vùng đất của ký ức.  “Đồ Bàn trống đã sang canh. Nhất Vương, nhị Đế lừng danh một thời”. Và ký ức đẹp đẽ nhất, hào hùng nhất mà Bình Định rất tự hào là vua Quang Trung. Ngay từ năm 1827, sau 25 năm nhà Tây Sơn sụp đổ và bị xóa trắng mọi dấu tích, bất chấp sự cấm đoán hà khắc của nhà Nguyễn, trên nền nhà, vườn cũ của anh em Nguyễn Huệ, lúc ấy đã thành bãi đất hoang, người dân làng Kiên Mỹ huyện Tây Sơn âm thầm xây lên một ngôi đình để thờ ba anh em Tây Sơn mang tên "đền Kiên Mỹ". Năm 1978 Bảo tàng Quang Trung được xây dựng tại đây, cách thành phố Qui Nhơn 50km về phía Tây Bắc, thuộc làng Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn.



Hiện tại quần thể Bảo tàng Quang Trung – điện thờ Tây Sơn là 1 trong những khu Bảo tàng Danh nhân lớn nhất nước. Trên một khuôn viên rộng 95.000m² với kiến trúc hiện đại kết hợp truyền thống.





Khu vực bảo tàng bao gồm 9 phòng trưng bày với những chủ đề khác nhau, với 11.057 tư liệu hiện vật gốc và hàng trăm hiện vật phục chế, xuyên suốt qua các thời kỳ phát triển của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn và Hoàng đế Quang Trung (1771 – 1789).
Sa bàn và các bản đồ chiến trận Tây Sơn. Như thấy vang lại lời hịch Tây Sơn "Đánh cho để dài tóc. Đánh cho để đen răng. Đánh cho nó chích luân bất phản. Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn. Đánh cho Nam quốc anh hùng chi hữu chủ"









Chiếc trống da voi của đồng bào Tây Nguyên tham gia phong trào Tây Sơn



Súng thần công, mãng gỗ thuyền chiến tìm thấy ở đầm Thị Nại, căn cứ thủy binh thời Tây Sơn





Vũ khí thời Tây Sơn



Tiền đồng Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh



Bảo tàng Quang Trung được coi đang sở hữu một kho tư liệu, hiện vật giàu có, phong phú nhất về một thời đại lừng lẫy và vị vua kiệt xuất nhất thời cận đại.



Thú vị nhất là bộ tượng vua Quang Trung thiết triều với Thượng thư bộ binh Ngô Thì Nhậm và  Đại tư mã Ngô Văn Sở. Bộ tượng phục dựng nguyên mẫu bộ tượng này ở chùa Bộc (phường Khương Thượng, quận Đống Đa (Hà Nội). Thời Nguyễn bộ tượng ở chùa được gọi là tượng Đức Ông, danh tính không rõ, sau này một lần lau dọn người ta phát hiện dòng chữ ''Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng'' phía sau bệ tượng. Các nhà sử học đã xác định được Bính Ngọ là năm 1846.
Bộ tượng ở giữa là vua Quang Trung, hai bên là cận thần Ngô Thì Nhậm và Ngô Văn Sở, vua với vẻ mặt nghiêm nghị, mình mặc hoàng bào, mang đai ngọc, mũ bình đính kiểu xung thiên. Điều đáng chú ý của cụm tượng này là Vua Quang Trung với một chân đi hài, một chân để ra ngoài, cho thấy vua vừa trang nghiêm nhưng cũng ung dung, gần gũi với bên dưới. Còn hai vị đại thần thì nghiêng mình như đang chờ lệnh, trông rất thân mật, không như vẻ cung kính quỳ lạy khi thiết triều như các triều đình phong kiến khác. Bộ tượng toát lên một vẻ rất… Nguyễn Huệ.


(Tượng chùa Bộc - Ảnh trên Internet)



Ngoài  khu vực bảo tàng,  còn có điện thờ Tây Sơn Tam kiệt, thờ 9 tượng thờ bằng gốm sứ dát vàng gồm tượng ba anh em nhà Tây Sơn và sáu văn võ tướng tiêu biểu là: Thượng thư bộ binh Ngô Thì Nhậm, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ, Đại tư mã Ngô Văn Sở, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Đô đốc Bùi Thị Xuân, Đại tư đồ Võ Văn Dũng.



Nhà rông văn hoá các dân tộc Tây Nguyên



Cây me 200 tuổi do cụ  Hồ Phi Phúc (thân sinh vua Quang Trung) trồng



Giếng nước cổ của gia đình Tây Sơn.



Nhà biểu diễn nhạc võ Tây Sơn, với nghệ nhân chính là bà Võ Thị Thuận, nghệ sĩ biểu diễn với dàn trống trận Quang Trung.



Và nhiều tiết mục múa võ Bình Định, mà theo mình hay nhất là tiết mục cô gái Bình Định múa võ với hai chàng trai.



Đường còn xa, rời nhà Bảo tàng với rất nhiều cảm xúc, nhớ truyền thuyết về vua Quang trong ngày mùng 5 Tết khi áo bào còn đầy mùi thuốc súng thắng trận tại Thăng Long, ông đã cho gởi một cành đào bích đất Bắc Hà về thành Phú Xuân cho công chúa Ngọc Hân. Chuyện vua Lê gã công chúa là một sắp xếp chính trị, chuyện cành đào đất Bắc về Phú Xuân chỉ là giai thoại nhưng đó là một giai thoại đẹp, và tôi vẫn cứ muốn tin đây là sự tương ngộ giữa “trai anh hùng, gái thuyền quyên”. Rời bảo tàng, để lại sau lưng bức tượng vua Quang Trung mà nghe như đâu đó tiếng thở dài của Ai tư vãn “… Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng. Nỗi đoạn trường còn sống còn đau…”



Về đất Phú Xuân lần này tôi có một chữ duyên, trở ra QL 19, trên đường về đi ngang qua đền thờ nữ đô đốc Bùi Thị Xuân. Tiếc là buổi trưa, đền đóng cửa, nhưng đặt chân được đến đền thờ là quý rồi, vì tôi dạy Sử trường PTTH Bùi Thị Xuân ở TP Hồ Chí Minh. Bài giảng Quang Trung đại phá quân Thanh ở lớp 11 ngày đó dạy như lên đồng. Có thêm một tấm ảnh của 5 bà ngoại Văn Khoa trước đền thờ  vào thời gian chỉ còn 3 ngày nữa là đến 20/10 cũng lại là một điều rất duyên.





Ngược xuôi trên đường thiên lý ở Bình Định thỉnh thoảng lại thấy trên đỉnh đồi xa xa một ngọn tháp Chàm, nhớ nhạc sĩ Văn Cao đã viết rất thơ hình tượng tháp Chàm Bình Định: "Từ trời xanh/ Rơi/ Vài giọt tháp Chàm..."





Các cụm tháp Chàm nằm rải rác đánh dấu một thời kinh đô Vijaya của người Champa, sử liệu Việt gọi là Đồ Bàn. Thành Hoàng Đế nằm trên địa phận xã Nhơn Hậu và thị trấn Đập Đá, huyện An Nhơn cách Quy Nhơn khoảng 20km về hướng Tây Bắc. Thành Hoàng Đế được triều đại Tây Sơn xây dựng vào năm 1775 trên cơ sở thành Vijaya (Đồ Bàn) của Vương quốc Chămpa để lại và đã được chính thức gọi tên là thành Hoàng Đế từ năm 1778.
Theo các kết quả bước đầu khai quật vào năm 2013, có 3 tầng văn hóa đã phát triển trên đất này, dưới cùng là văn hóa Chămpa, phía trên là dấu tích văn hóa Tây Sơn và nhà Nguyễn. Thành Hoàng Đế nguyên là một tổng thể kiến trúc hình chữ nhật, gồm ba vòng thành: Thành Ngoại, Thành Nội và Tử Cấm Thành. Thành Ngoại có chu vi là 7400m. Thành Nội còn được gọi là Hoàng Thành có hình chữ nhật dài 430m rộng 370m. Bên trong Thành Nội là Tử Cấm Thành cũng có hình chữ nhật dài 174m rộng 126m.







Dấu tích xưa của thành là vòng thành bằng đá ong, nay đã được làm mới hoàn toàn.





Trong thành còn một kỳ đài và 2 con sư tử đá được cho là từ thời vương triều Chămpa.



Ký ức Chămpa hiện chỉ còn lại qua những cụm tháp nằm rải rác ở Bình Định, chúng tôi chỉ có điều kiện ghé qua 3 trong 8 nhóm tháp Chăm của Bình Định.
Tháp Bánh Ít cách thành phố Quy Nhơn khoảng 20km, nằm giữa 2 nhánh sông Côn là Tân An và Cầu Gành, đi trên Quốc lộ 1 A có thể nhìn thấy tháp trên đỉnh một quả đồi.



Tháp chính cao 22m, chung quanh tháp chính còn có ba tháp phụ, hình dáng thấp và nhỏ hơn. Mỗi tháp là một kiến trúc riêng biệt mang sắc thái khác nhau. Trên đỉnh mỗi tháp đều có tượng thần Siva làm bằng đá.







Tháp Đôi nằm cạnh cầu Ðôi trên đường Trần Hưng Đạo, phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tháp Ðôi còn có tên là tháp Hưng Thạnh, được xây dựng vào cuối thế kỷ 12, Tháp Đôi là công trình kiến trúc độc đáo gồm 2 tháp nằm cạnh nhau theo trục Bắc – Nam trong đó tháp Bắc cao 20m và tháp Nam cao 18m.



Bốn góc của bộ diềm mái là hình bốn chim thần điểu Ga-ru-đa bằng đá.



Tháp Cánh Tiên nằm trên đỉnh gò không cao lắm ở gần Thành Hoàng Đế, là một ngôi tháp đẹp, được tạo dáng độc đáo, thanh thoát với bố cục hết sức hợp lý. Các hình chạm khắc trang trí chủ yếu tập trung trên bộ mái. Với bốn tầng hiện còn, tầng nào cũng có bốn tháp góc trang trí, mỗi góc lại có một tầng nhỏ, tạo dáng lá nhỏ dần về phía trên tạo cảm giác như những cánh chim đang bay.



Tuy nhiên có một điều làm du khách sẽ thất vọng trong thời điểm này vì tháp được tôn tạo… quá mới. Tháp cổ làm bằng đá sa thạch đỏ, nhưng trừ những viên gạch dưới chân tháp dù còn rất mới nhưng cũng có màu đỏ, còn thì những chi tiết ở các góc cạnh được phục dựng hình như… bằng xi măng. Cảm giác thật khó chịu quá, rồi tôi rất mong rằng kiến thức vể kiến trúc Chăm của tôi quá tệ mà đã vội phê phán, mong rằng những lớp mà tôi gọi là xi măng thật ra là một chất liệu gì đó theo thời gian sẽ trở nên rêu phong cũ kỹ như những lớp rêu phong hiện có của tháp.



Chỉ mới đi qua 3 cụm tháp, chưa thể nói rằng đã biết hết về tháp Chàm Bình Định, nhưng dù sao cũng vẫn có được cảm giác đang đi trên những ký ức của một thời Chămpa. Năm 1307, kinh đô Đồ Bàn ghi dấu ấn lịch sử quan trọng trong quan hệ Việt – Chăm: vua Champa - Chế Mân cưới công chúa nhà Trần là Huyền Trân, rước về Đồ Bàn, lễ vật cầu hôn là hai châu: Ô, Lý (từ sông Cam Lộ, Quảng Trị đến Hải Vân ngày nay). Lại một cuộc hôn nhân chính trị, các bà công chúa của Thăng Long về sống ở kinh đô xưa này đều có cuộc đời không  suôn sẽ, vua Quang Trung qua đời năm 39 tuổi, vua Chăm là Chế Mân cưới Huyền Trân được 1 năm thì cũng mất. Đàn bà dù là công chúa… cũng liêu xiêu.

Đọc tiếp ...