Thứ Hai, 13 tháng 1, 2014

LÃNG ĐÃNG SẮC MÀU TÂY NGUYÊN

7 giờ sáng ngày 16/12 vẫn còn đang lang thang ở Kon Tum, còn 12 tiếng nữa là giờ máy bay ở Pleiku cất cánh về Sài Gòn, tranh thủ tìm đến quán cà phê được giới thiệu là rất Tây Nguyên, quán EVA (nghĩa là Em và Anh) số 5 đường Phan Chu Trinh.



Bước vào khuôn viên với khá nhiều cây xanh.







Rất nhiều các vật trang trí đặc thù của Tây Nguyên.





Những tượng gỗ điêu khắc rất ngẫu hứng và cách trang trí rất… bụi.





Hai gian ngoài là nhà xây, với sự cũ kỹ có thật nhưng được cố ý để lại.



Phía sau là một gian nhỏ dựng trên các gốc cây có sẵn và những cột kèo đều để nguyên thân gỗ xù xì.





Ở đây có thể ngồi uống cà phê và nhìn ra góc sân xanh mát.



Hoặc tìm một góc nhỏ yên tĩnh để nửa ngồi nửa nằm đọc sách.



Có cả một quầy bar.



Góc cuối vườn là một đống củi to, nhưng không phải chỉ để trang trí, mà là củi để nấu nước.



Bởi vì trong một góc khác là một cái bếp lúc nào cũng đỏ lửa để nấu nước sôi pha cà phê.





Khách du lịch nước ngoài có vẻ rất thích quán này, vài bức thư viết cảm tưởng về quán được dán lên.



Rất thích ngồi lại thêm nữa vì khung cảnh và sự yên tĩnh nhưng chẳng có thời gian, vì còn muốn ghé làng Kon K’Tu cách trung tâm thành phố Kon Tum khoảng 8km về phía Đông. Đi ngang những bãi bồi ven sông Drak Bla, dọc đường thấy những bãi mía trổ cờ nhìn thì đẹp nhưng thật xót lòng cho nông dân.





Từ cầu treo Kon Klor đi vào độ 5km thì đến ngôi làng Kon K'Tu thuộc xã Đăk Rơ Wa của người dân tộc Bahnar được xem là làng cổ nhất trên địa bàn thành phố Kon Tum. Sau khi không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại, thì hiện nay ở đây, dân làng vẫn duy trì được những đội cồng chiêng, đội múa Xoang. Làng vẫn giữ nguyên vẹn lễ hội truyền thống. Ngôi làng này không phải là một làng giàu có về vật chất, nhà ở vẫn cũ kỹ nhưng giữ được nguyên gốc nhà sàn, vách tre nứa hoặc có làm tường thì là tường trình, và khi nhà làm dịch vụ Home Stay thì thêm bên cạnh cầu thang gỗ là một cầu thang… bê tông.





Làng vẫn giữ được những nét cổ kính, hùng vĩ và hoang sơ, hơn 20 nóc nhà và 1 nhà thờ nhỏ vây quanh chính giữa một nhà Rông được dùng làm lớp học cấp 1.









Chúng tôi đi lang thang trong làng, và tìm thấy một nhà có khung dệt  thổ cẩm với một chị đang ngồi dệt, ghé lại và bắt đầu một cuộc tranh cãi… trả giá bất tận giữa những người phụ nữ Kinh với phụ nữ Bahnar về việc mua thổ cẩm.



Vẫn biết là rất công phu và mất thời gian vì sợi bông nhuộm bằng các loại lá, cây rừng, rồi ngồi dệt bằng tay thế này . Nhưng trả giá là thuộc tính muôn đời của những người đàn bà khi đi mua hàng, tuy nhiên nếu như ở chợ Bến Thành hay chợ Đồng Xuân, người bán lấn lướt người mua, thì ở đây ngược lại, người bán bẽn lẽn và nói nhát gừng: “Khong co lơi đâu” – “Cai nay det ca tuân” – “Noi voi ngươi Viêt  khong noi gia mac như vơi ngươi Tây đâu”. Trong khi 4 mụ người Kinh này cứ ác nghiệt kỳ kèo bớt giá cho bằng được.  Làm mẫu chụp hình xem ngay để chọn.



Chúng tôi thích những mẫu nhuộm màu của vỏ cà phê. Chị Quế mua một mảnh bề rộng khoảng 7 cm, bề dài khoảng 2m5, và một cái khăn, tôi mua một cái khăn. 





Mảnh vải chị Quế mua để may áo là loại khăn lớn mà phụ nữ Bahnar vẫn thường dùng để địu con.





Mua rồi trên đường về nghĩ lại, chị cặm cụi ngồi dệt mấy ngày mới ra tấm khăn, thấy mình cũng hơi quá đáng thật, tiêu chỗ khác bao nhiêu mà cứ kỳ kèo với chị ấy. Bọn trẻ con tròn xoe mắt chào tạm biệt.



Trước khi chào Kon Tum, ghé ăn trưa ở một quán có món lòng xào nghệ lạ miệng và rất ngon vì được thêm tiếng cười bởi bà chủ quán.



Một bà trung niên mà khi mới bước vào quán thấy lúi húi đang làm hang đá, hỏi chuyện lúc đầu thấy là con chiên ngoan đạo vì nghe bà kể chuyện nấu cơm cho các đoàn từ thiện của các họ đạo, lát sau được biết thêm quán này ai vô ăn chỉ kêu được 1 chảo thôi, tùy theo số người mà kêu chảo lớn hay chảo nhỏ, nhưng không bán thêm chảo thứ hai cho một lần ăn, muốn ăn nữa… lần sau tới. Hỏi sao không bán thêm, bà chủ nói đông quá trời, bán một chảo còn muốn không kịp, nhiều khi một mình nấu không xuể (món này theo bà nói chỉ duy nhất bà chủ làm, dù đã hướng dẫn rồi các người phụ bếp cũng không làm ngon được), mà khách vô tận trong bếp để hối thúc, vậy là bà…chửi để tiển khách. Bà kể lại là xổ ra một tràng tiếng… Đan Mạch và kết thúc bằng chữ… không bán. Lại kể tiếp là khách cũng chửi lại y nguyên một tràng tiếng Đan Mạch như thế rồi kết thúc bằng chữ…không đi. Giọng bà chửi nghe giòn như mình nhai đám hẹ non trên bàn. Lại kể tiếp là nhiều khi khách đứng ngoài đường cũng bị chửi, bởi vì … “Nó đứng ngoài cửa quán mà alô, tới đâu rồi, tao đang đứng trước quán bà vú bự đây, trời đất ơi, tui tức quá chửi vọng ra mồ tổ cha mày, cái quán tao tên Phương Hòa đẹp đẽ vậy mà sao không kêu…” Ha ha ha…lần đầu tiên 4 bà già này vô quán ăn món nhậu, uống Coca mà cười như một bàn nhậu thật sự. Lên đường đi xa quán rồi mới nói với nhau, cái quán này kêu là quán chảnh.



Từ Kon Tum về Pleiku đã hơn 5  giờ, chưa đói nhưng trước khi ra sân bay vẫn ghé  quán Nhất An ăn gỏi sứa vì lần trước ăn ở quán này rất ngon.



Tạm biệt Tây Nguyên xinh đẹp, đẹp như bông hoa nhỏ xíu tình cờ gặp bên đường.



Đất, người, món ăn, thức uống đều khiến người ta muốn trở lại. Nhưng thôi, đã về đến nhà rồi!

Đọc tiếp ...

CHÙA Ở PLEIKU - NHÀ THỜ Ở KONTUM

Hành trình thực sự của chúng tôi chỉ có 4 ngày, bỏ ngày đầu vì đến Pleiku thì đã tối rồi, mà lại hơi tham, muốn đi khá nhiều nơi, nên chùa và nhà thờ ghé qua không nhiều và cũng không lâu. Nhận xét đầu tiên sau một ngày ở Pleiku, ghé hai kiểng chùa và nhìn qua một cổng chùa khác, chùa ở đây đều mới trùng tu, không thấy nét rêu phong như chùa ở miền Bắc, màu sắc không như các chùa miền Nam, ở đây chùa mang màu đất đỏ bazan chứ không phải màu đỏ son, cùng màu xanh lục của lá rừng và một màu nâu đỏ cùng nâu nhạt mà hôm sau khi mua thổ cẩm tôi nhận ra đó là màu nước nhuộm của vỏ cây và vỏ cà phê. Ngôi chùa lớn nhất ở Pleiku là chùa Minh Thành, nằm trên một triền đồi, bắt đầu xây dựng từ năm 1964 và từ đó đến nay vẫn tiếp tục được trùng tu cũng như xây dựng mới. Ngôi chùa to lớn nằm trên diện tích khoảng 2 ha nên máy ảnh nghiệp dư như tôi chỉ chụp được từng phần bên ngoài.  Chánh điện cao 16m làm bằng gỗ pơ mu và gỗ gõ, có 2 tầng, họa tiết công phu.



Bên phải là dãy nhà việc và tháp chuông.





Bên trái là tháp Tổ khai sơn.



Phía trước chùa là hồ Liên Trì với tượng Phật Di Đà bằng đá, cao 7,5 m, nặng 40 tấn  đứng nhìn xuống thành phố Pleiku phía trước.





Một bảo tháp Xá Lợi có 9 tầng, cao 90 m đang xây sắp xong phía bên trái.



Các chi tiết chạm trỗ khá công phu. Có cảm giác  kiến trúc cầu kỳ của ngôi chùa này hình như pha trộn nhiều loại kiến trúc chùa Đài Loan, Thái Lan, Trung quốc…



Ngôi chùa thứ hai chúng tôi bước chân vào là chùa Bửu Minh ở gần Biển Hồ trà, ngôi chùa khá xưa của Pleiku, đầu thế kỷ XX, những người phu mộ từ đồng bằng lên làm ở đồn điền chè đã lập một làng tên là “Xóm Cỏ May”, do nhu cầu tín ngưỡng, một nơi thờ tự có tên “Sơn Hải miếu” được lập ra, đó là tiền thân của chùa Bửu Minh. Năm 1936, được khai sơn thành  chùa Phật Học, năm 1961 được trùng tu và mang tên Bửu Minh.



Cũng là một ngôi chùa có kiến trúc khá lạ với các chùa ở đồng bằng, chánh điện cao gần 50m, có dáng dấp như mái nhà rông Tây Nguyên.


(Ảnh tư liệu)

Các đầu đao vươn ra nhiều nên giống thân chim phượng hoàng.



Các đầu đao khắc chạm  đầu rồng kiểu đầu rồng chùa Tây Phương - Hà Tây, cạnh đầu rồng là cá hoá long, giống góc mái chùa Một Cột Hà Nội.



Khuôn viên chùa không lớn so với rất nhiều kiến trúc được xây dựng trong chùa nên cho cảm giác khá chật hẹp.





Một ngôi chùa khác chỉ chạy xe ngang nhìn qua là chùa Bửu Nghiêm, cũng mang màu của đất bazan và vỏ cà phê.



Không có thời gian nên chưa tìm hiểu về nhà thờ ở Pleiku, nhưng khi đến Kon Tum thì thấy ở mỗi bản làng đều có một nhà rông  và thường là có thêm một nhà thờ với kiến trúc đặc biệt kiểu Tây Nguyên. Nhà thờ Chính Tòa Kon Tum thì không phải bàn rồi, nổi tiếng với kiểu dáng hết sức đặc biệt, kết hợp kiến trúc Roman và kiến trúc nhà sàn người Bahnar, làm toàn bằng gỗ (phần lớn là gỗ cà chít), nên tên dân gian gọi là Nhà thờ Gỗ.





Từ cột kèo đến nóc nhọn của giáo đường và tháp chuông cao vút đều bằng gỗ.







Điểm xuyết trên đó là những hoa văn mang sắc màu Tây Nguyên, tạo điểm nhấn.



Bên trong nhà thờ là mái vòm cong vút cao lồng lộng.



Dọc hai bên là những hàng cột làm từ gỗ cà chít đen tròn, thẳng tắp. Liên kết với các cột là những vòm gỗ. Tất cả được đục đẽo, gắn kết nhau bằng mộng, không đinh hay thứ gì kết dính.



Lồng vào giữa những khối gỗ là những tấm kính màu, mô tả hình ảnh trong Kinh Thánh và cũng là chỗ lấy ánh sáng cho phía trong.





Nếu như nhiều chi tiết làm bằng gỗ thì tường và mái nhà thờ lại là đất sét trộn rơm bện lại thành khối và đắp lên nhau, gắn kết với cột kèo gỗ tạo thành kiểu kiến trúc độc đáo. Cũng như nhà rông, tôi bất ngờ trước sự vững chãi của kiến trúc và thán phục tài hoa của các nghệ nhân đất Tây Nguyên.





Nếu nhà thờ Chính Tòa đẹp dung dị mà sang trọng thì các nhà thờ tôi gặp khi đi ngang qua các giáo xứ cũng đẹp một cách đặc biệt. Đi trên đường 24, đến xã Đăktơre huyện Kon Rẫy, gặp làng Kon XơmLuh, một nhà thờ mang hình dáng một nhà rông Tây Nguyên sừng sững bên đường.





Cột gỗ, mái ngói, các điêu khắc bằng gỗ và chi tiết hoa văn Tây Nguyên, đẹp đến ngạc nhiên với một nhà thờ nhỏ bên đường.







Một lần khác đi vào làng Kon K'Tu thuộc xã Đăk Rơ Wa, ngôi làng cổ nhất của Kon Tum cũng thấy một nhà thờ gỗ nhỏ xinh, cũng kiến trúc bằng gỗ và hoa văn kiểu Tây Nguyên, rất tiếc hôm đó là thứ hai, nhà thờ đóng cửa, không nhìn được kiến trúc bên trong.





Kon Tum còn có Tòa Giám mục còn có tên là Chủng viện Thừa Sai Kon Tum, xây dựng từ năm 1935, cũng vẫn là sự kết hợp hài hoà giữa lối kiến trúc phương Tây với kiến trúc dân tộc bản địa truyền thống. Vật liệu chính vẫn là gỗ quý và xây dựng  vẫn là sự lắp ghép.





Nằm khuất sau hai rặng sứ lâu năm và những hàng cây cổ thụ rợp bóng mát, Chủng viện mang dáng vẻ yên bình, tĩnh lặng như chính nhịp sống của người bản địa Kon Tum.



Tiếc là chúng tôi ghé qua đúng giờ nghỉ trưa vì còn phải quay về Pleiku để đáp chuyến bay về Sài Gòn tối hôm đó nên không vào được bên trong để xem một bảo tàng thu nhỏ ở lầu 2 lưu giữ và trưng bày khá đầy đủ về những vật dụng sinh hoạt, sản xuất, vật thể, ấn phẩm văn hóa, tôn giáo của các dân tộc bản địa Kon Tum. Ngoài sân vườn có một số các hình tượng các vật dụng sinh hoạt của người dân Tây Nguyên.
Xe bò và cối giã gạo.



Gùi và bầu rượu.



Chiếc thuyền độc mộc lớn trước để nơi đây bây giờ chỉ còn 2 chiếc  thuyền nhỏ.




(Ảnh tư liệu)

Chùa và nhà thờ là thế giới tâm linh, mỗi người tùy theo hoàn cảnh khi bước vào mà cảm nhận thế giới trong đó.



Tôi là một người bình thường, điều tôi biết chắc là khi rời khỏi đây, bước qua cánh cửa này, tôi sẽ lại trở về với tất cả những sân si đời thường!

Đọc tiếp ...