Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

Truyện HOA VIOLET NGÀY THỨ TƯ

 

Photobucket

ANDRÉ MOURIOS

- Ô kìa, bà Jenny, bà ở lại đi !

Trong suốt bữa ăn chiều, Jenny Sóocbiê thật là rực rỡ. Rực rỡ ta muốn nói ở đây tức là tài năng của người nữ nghệ sỹ sân khấu, như một nữ văn sỹ tài hoa đã viết, có cả huyền thoại và chuyện thực quyện vào nhau, được gắn chặt bởi lòng nhiệt thành không bao giờ cạn. Say mê, hứng khởi, bị chinh phục, các thực khách của Léon  Laurent đều có cảm giác được sống những giây phút khoái trá, lãng quên cả thời gian.

- Không thể được đâu ạ, đã gần 4 giờ rồi, và hôm nay là ngày thứ Tư ... Ông biết đấy ông Léon ạ, hôm nay là ngày tôi mang hoa violet đến cho con người đã từng yêu tôi tha thiết.
- Thật đáng tiếc, - Léon nói với giọng đứt quãng, làm cho không khí càng thêm long trọng. – Vâng, tôi biết rõ lòng chung thủy của bà ... tôi không dám nài.

Bà ôm hôn các vị khách nữ, cánh đàn ông ôm hôn bà, và bà ra đi. Ngay sau khi bà vừa bước ra, mọi người đều bật lên lời khen ngợi :

- Bà ấy thật phi thường! Bà ấy bao nhiêu tuổi rồi ông Léon ?
- Cũng sấp sỉ tám chục rồi. Hồi tôi còn nhỏ, khi mà mẹ tôi đưa tôi đến nhà hát kịch cổ điển Pháp thì Jenny đã nổi tiếng trong vai Xelimen rồi. Và tôi thì bây giờ chẳng còn trẻ trung gì nữa.
- Thiên tài không có tuổi, - Klerơ Mênetơriê nói - ... Còn câu chuyện về những bông hoa ấy ?
- Cả một thiên tiểu thuyết, một hôm bà đã thổ lộ cho tôi chứ bà không bao giờ viết. Nhưng tôi không muốn liều kể lại khi không có mặt bà ở đây. Rồi nó tam sao thất bản đi thì đáng sợ lắm
- Đúng thế, kể cũng thật đáng sợ nếu tam sao thất bản. Nhưng chúng tôi là khách của ông, ông phải kể gì để khuây khỏa chúng tôi và thay thế bà Jenny chứ, bởi vì bà ấy đã bỏ chúng tôi lại
- Thôi đành vậy. Tôi sẽ cố thử kể lại câu chuyện những bông hoa Violet ngày thứ Tư. Tôi sợ câu chuyện mang quá nhiều mầu sắc tình cảm so với thị hiếu của thời đại chúng ta.
- Không sao, - Béctơrăng Smít nói - Thời đại chúng ta đang đói tình cảm. Nó giả vờ ngổ ngáo chỉ để che dấu hoài vọng tình cảm của nó mà thôi.
- Ông cho là như vậy ? ... Thôi được ... Tôi sẽ làm đã cơn khát này... Các vị ở đây đều còn quá trẻ để có thể nhớ lại tiếng tăm lừng lẫy của Jenny trong suốt 1 thời gian dài như thế nào. Mái tóc vàng hung buông xõa trên đôi vai tuyệt đẹp, cặp mắt dài lúng liếng, giọng nói sắc, gần như lạnh lùng, bất chợt lại lặng đi vì xúc động; tất cả làm tăng thêm vẻ đẹp lộng lẫy kiêu kỳ!

- Ông vào đề hay quá, ông Léon ạ.

- Vâng nhưng khí không hợp thời... Dầu sao cũng xin cám ơn lời khen của ông... Bà ấy đoạt giải lần đầu ở Viện Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ vào quãng năm 1895, và sau đó biểu diễn trong Hý kịch Pháp. Kinh nghiệm cho tôi hay rằng cái nhà hát nổi tiếng này cũng khó tính lắm. Diễn viên biểu diễn ở đó phải có chức danh và họ giữ khư khư lấy chỗ của mình. Những vai phụ có tài nhất có thể phải đợi ở đó hàng chục năm trời trước khi được đóng vai quan trọng nhất của Marivô hay của Molie. Jenny, cô gái rất điệu đà ấy, đã vấp phải những người đàn bà quyền uy và dai như đỉa. Người phụ nữ khác thì đã nín nhịn mà giẫm chân tại chỗ hay sau hai năm đã chuyển sang một nhà hát khu phố nào đó. Jenny của chúng ta đã không như thế. Cô ấy đã tuyên chiến, huy động tất cả những gì cô ấy có : tài năng nghệ sỹ, học vấn, vẻ đẹp quyến rũ và mái tóc làm say đắm lòng người.

Rất nhanh, cô đã giành được ở nhà hát 1 chỗ đứng hàng đầu. Nhà cầm quyền kính nể cô. Các nhà đạo diễn kịch đòi cô đóng những vai khó mà như họ nói, chỉ có cô mới đóng được. Các nhà phê bình chẳng tiếc 1 lời nào để tán dương cô. Ngay cả con người gớm ghiếc Xác Vây cũng viết: "Cô ta có những điệu bộ, kiểu cách đến cá sấu cũng phải mê".

Cha tôi, người quen biết Jenny từ thời gian đó, đã nói với tôi rằng, cô ấy hết lòng say mê nghề nghiệp của mình, diễn xuất 1 cách thật thông minh và luôn tìm cách gây những hiệu quả mới làm người xem ngã ngửa ra. Khi đó kịch trượt vào 1 chủ nghĩa hiện thực ngây thơ. Trong 1 vở nào đó tôi không nhớ, Jenny phải chết vì ngộ độc, cô đã đi đến các bậnh viện để tìm hiểu các hiệu quả của thuốc độc. Còn về cách biểu diễn tình cảm thì cô tự nghiên cứu ở chính mình.

Bằng nghệ thuật của mình, cô đã chỉ rõ sự thiếu thận trọng của Banzac khi ông này đem vào một trong những cuốn tiểu thuyết của ông những ham muốn cá biệt của riêng ông, hoặc của người phụ nữ mà ông yêu.

Các vị làm gì mà chẳng biết ngay rằng một cô cái mới hai mươi hai tuổi, đẹp lộng lẫy và đột nhiên đạt tới vinh quang sẽ được biết bao người theo đuổi. Bạn đồng ngiệp, rồi các nhà viết kịch, rồi các chủ nhà băng cố thử vận may. Một trong số họ, Henry Stan, được cô ưa thích. Không phải vì ông ta giàu. Cô sống chung với gia đình và cũng chẳng đòi hỏi gì quá cao sang. Chàng trai ấy quả thật rất có duyên và nhất là anh luôn luôn bày tỏ ý muốn được cưới cô làm vợ... Các vị cũng biết là đám cưới này bị hoãn lại vì bố mẹ Stan phản đối. Ba năm sau mới thành, nhung rồi cũng chẳng đi đâu vì Jenny vốn quen sống tự do không thể tự khuôn mình vào cuộc sống vợ chồng. Nhưng đó lại là một chuyện khác. Chúng ta hãy quay về với nhà hát Hý Kịch Pháp, với bước đường vào đời của bạn bè của chúng ta và với...những bông hoa violet.

Các vị hãy hình dung cảnh phòng giải lao của các nghệ sĩ vào cái đêm mà Jenny đóng lại trong vở "Nàng công chúa thành Bátđa" của Dumas con. Vở kịch có những hạn chế của nó; và tuy đang ngưỡng mộ những vở có cấu trúc vững chắc khác của ông như "Nửa vòng thế giới", "Bạn của những người phụ nữ, Frăngxiông, cái ông Dumas thái quá lần này trong vở "Người xa lạ" và "Nàng công chúa..." cũng vẫn làm tôi buồn cười. Tất cả những ai đã xem Jenny trong vai này đều phải công nhận là cô đã là cho vở kịch giống thực hơn. Tôi vẫn thường nói điều đó với bà Jenny. Điều kỳ lạ là người nghệ sĩ đã tin vào những gì mình diễn. "Vào buổi ấy, - bà nói, - tôi luôn nghĩ gần giống như những nhân vật chính của ông Dumas và tôi thấy thật là kỳ cục khi đem phơi bày trước ánh sáng những gì đang diễn ra trong tôi, nơi sâu kín nhất trong tâm hồn tôi. "Cũng phải nói thêm là trong vai này, mái tóc buông xõa và đôi vai trần đã có tác dụng của nó". Tóm lại, cô đóng vai đó thật tuyệt vời.

Cô trở lại phòng giải lao giữa hai màn kịch, sau một tràng vỗ tay. Mọi người vây chặt lấy cô. Jenny ngồi xuống chiếc ghế con bên cạnh Henry Stan và nói huyên thuyên về thành công một cách hào hứng.
-Thế là thoát, anh Henry thân yêu...em lại nổi lên rồi! Cuối cùng em thở được...Anh đã nhìn thấy em ba hôm trước rồi đấy. Hôm đó em diễn tốt hơn có phải không nào?...Ùm một cái xuống tận đáy ao. Em ngạt thở...và tối nay... hấp! Một cố gắng phi thường, em nổi trên mặt nước! Henry ơi, anh nói đi, liệu em có bị mắc cạn ở màn cuối không, nếu như em không biết cách bơi đến bờ? Ôi trời ơi, trời ơi!

Người dẫn khách bước vào và trao cho cô bó hoa.
-Của ai đấy? À, phải rồi, của Xanh Lu...Tình địch của anh đấy anh Henry ạ...Hãy để vào lô của tôi.
-Thưa cô, còn có một lá thư nữa, - Người dẫn khách nói.
Cô mở bức thư, đọc và phá lên cười.
-Của một cậu học sinh trung học...Cậu ta nói với em là ở trường cậu đã xây dựng một câu lạc bộ Jenny.
-Cả câu lạc bộ đua ngựa cũng thành câu lạc bộ Jenny-Henry nói thêm
-Cái cậu học sinh trung học này làm em xúc động hơn -Jenny nói- Và lá thư này còn kết thúc bằng một bài thơ...Anh thân yêu, anh nghe nhé"
"Và sau hết, hãy tha thứ cho tôi vì vần thơ giản dị
Đừng khinh rẻ những vần điệu của tôi
Tình yêu tôi vô cùng chân thật. Cầu xin nàng,
Đừng tiết lộ gì với ngài Hiệu trưởng"

-Không đáng yêu sao hả anh?
-Em sẽ trả lời họ chứ?
-Tất nhiên là không rồi! Có đến hàng tá nhưng loại như thế trong một ngày. Nếu em trả lời hết thì em còn làm được gì nữa. Nhưng mà điều này làm em yên tâm. Những người hâm mộ ở lứa tuổi mười sáu này; em sẽ giữ hộ được lâu hơn.
-Đã chắc gì,..Ba mươi tuổi, họ sẽ trở thành những ông chưởng khế.
-Nhưng vì sao những ông chưởng khế lại không tiếp tục hâm mộ em?
-Vẫn còn cái này nữa, thưa cô - Người dẫn khách nói.

Ông ta đưa cho Jenny một bó hoa Violett.
-ôi, xinh qua, anh Henry nhìn này...Không có danh thiếp a?
-Không, thưa cô...Người gác cổng nói lại với tôi là một chàng học viên trường sĩ quan pháo binh và công binh mặc đồng phục đã đưa đến chỗ ông ta.
-Em thân yêu -Henry Stan nói- anh có lời khen em đấy. Làm xúc động những "Cái đầu đầy ẩn số" ấy không phải dễ đâu.

Cô ngửi mãi mùi hương hoa Violet.
-Thơm quá,... đây mới chính là lời khen ngợi khiến em vui lòng...Em không yêu đám khán giả chín chắn và vô tình; họ đến xem em chết vào buổi tối cũng như buổi trưa họ đi ra quảng trường hoàng cung để nghe đại bác vậy.
-Đám khán giả nhẫn tâm -Stan nói- Họ luôn luôn là như vậy. Họ thích các trò xiếc...Thành công thật là mỹ mãn, nếu như một nữ diễn viên có thể nuốt được hàng trăm chiếc kim!
Cô bật cười
-Và người nuốt được chiếc máy khâu sẽ là tột đỉnh vinh quang.
Bên ngoài khán giả kêu ầm ĩ: "Diễn tiếp đi!" Jenny đứng dậy:
-Thôi nhé, chờ em một lát. Em đi nuốt nốt trăm chiếc kim của em đây.
Và thế đấy, theo như Jenny kể lại, thiên tình sử bắt đầu.

Thứ Tư sau, vào giữ giờ giải lao, người dẫn khách lại đưa cho Jenny một bó hoa violet, miệng tủm tỉm cười.
-Sao, lại của anh chàng học viên sĩ quan của tôi à?
-Vâng, thưa cô.
-Trông anh ấy thế nào?
-Tôi cũng không biết. Cô nên hỏi người gác cổng.
-Không, cũng chẳng có gì quan trọng lắm.

Tuần sau nữa, cô không diễn vào tối thứ Tư, nhưng khi cô đến rạp ngày thư Năm để tập thì đã thấy bó hoa violet có hơi héo ở trong lô của mình rồi. Khi ra về, dừng lại, cô hỏi người gác cổng.
-Ông Bécna, hoa violet của tôi là thế nào đấy? Vẫn là của anh chàng trẻ tuổi đấy à?
-Vâng, thư cô...đây là lần thứ ba.
-Anh ta giống ai, anh chàng học viên sĩ quan ấy mà?
-Anh ta thật dễ thương...dễ thương lắm...có hơi gầy một chút, má hõm, mắt quầng thâm. Có hàng râu con kiến. Một chiếc ống nhòm...Trông anh ta hơi kỳ quặc với chiếc kiếm bên người... Xin thề với cô là anh chàng này say đắm lắm. Anh ta trao cho tôi bó hoa và nói""Tặng cô Jenny Soocbie" và mặt anh ta đỏ ửng lên.
-Tại sao anh ta lại cứ đến vào ngày thứ Tư?
-Cô không biết sao? Thứ Tư là ngày họ được phép đi ra ngoài. Thứ Tư nào các bồn hoa và hành lang không đông nghịt những học viên sĩ quan, một người dẫn thêm một cô gái trẻ.
-Anh chàng của tôi cũng có chứ?
-Vâng, thưa cô, nhưng là chị của anh ấy. Họ giống nhau đến kỳ lạ.
-Chàng trai tội nghiệp! Ông Bécna, nếu tôi dám, tôi sẽ báo với ông cho anh ta lên chỗ tôi ít ra là một lần, để anh ta có thể tận tay trao hoa cho tôi.
-Thế hả, quả thực tôi chẳng dám khuyên cô như vậy đâu...Những chàng trai si tình ấy, chừng nào mà ta không tỏ ra quan tâm đến họ thì chưa có gì là nguy hiểm cả. Họ đứng từ xa mà chiêm ngưỡng các nữ nghệ sĩ, như thế họ cũng đã mãn nguyện lắm rồi... Ta chỉ hơi tỏ ra quan tâm đến họ một chút thôi, thế là họ bám chặt ngay lấy, lúc đó tình huống sẽ trở nên kinh khủng...Ta cho họ ngón tay, họ sẽ đòi cả bàn tay...Ta cho họ bàn tay, họ sẽ đòi cả cánh tay...Vậy đấy cô ạ, cô đừng cười, tôi có kinh nghiệm về chuyện này lắm rồi...Tôi ở đây đã hăm lăm năm nay. Tôi, tôi đã nhìn thấy ở ngay trong lô này khối cô gái si tình...và những chàng trai gàn dở...và cả các quý ông già nua nữa chứ... Tôi luôn luôn nhân hoa, nhận thiếp, còn cái chuyện để cho họ lên thì dứt khoát là xin đừng.
-Ông nói đúng đấy, ông Bécna ạ...Chúng ta cần phải lạnh lùng, cẩn tắc và có khi phải tàn nhẫn nữa.
-Đâu phải là tàn nhẫn hở cô. Lý trí đấy chứ.

Nhiều tuần lễ đã trôi qua. Cứ một thứ Tư, Jenny lại nhận được một bó hoa. Bây giờ cả rạp biết chuyện. Một nữ diễn viên nói với Jenny:
-Tôi đã nhìn thấy anh chàng học viên sĩ quan của chị rồi. Anh ta có khuôn mặt đẹp, trông thật lãng mạn. Một chàng trai sinh ra để diễn "Bỡn cợt" hoặc "Người bán nến"
-Sao chị biết đó là anh chàng của tôi?
-Tại vì tình cờ tôi có mặt chỗ người gác cổng khi anh ta đưa hoa đến và rụt rè nói:"Xin ông cho gửi tặng cô Jenny Soocbie." Thật cảm động. Hẳn là anh chàng này thông minh lắm. Anh ta sợ mọi người chê mình kỳ quặc, tuy nhiên lai không nén nổi lòng mình...Đã có lúc, tôi cứ tiếc là anh ta không đến vì tôi; tôi sẽ cảm ơn, sẽ an ủi anh ta. Mà chị phải nhớ là anh ta không đòi một cái gì đâu nhé, kể cả việc được gặp chị. Nhưng nếu tôi ở vào địa vị của chị...
-Chị sẽ tiếp anh chàng chứ?
-Đúng thế, một lát thôi...Đã bao năm nay. Rồi sẽ đến lúc nghỉ hè. Chị sẽ ra đi...Chẳng sợ anh chàng bám dài đâu...
-Chị nói đúng. Thật là điên rồ nếu ta rẻ rúng những người hâm mộ lúc này còn đông và còn trẻ, để đến ba mươi năm nữa ta chạy theo họ khi họ chẳng còn được mấy người và đã già khú đế ra rồi.

Tối hôm đó, khi ra về, Jenny nói với người gác cổng:
-Ông Bécna ạ, thứ Tư tới, khi anh chàng học viên sĩ quan mang hoa đến thì ông bảo với anh ta mang hoa lên chỗ tôi nhé, sau màn ba nhé...Tôi diễn vở Midăngtrốp. Tôi không phải thay trang phục. Tôi sẽ lên lô của tôi và tiếp anh ấy... Không, tôi đợi anh ta ở hành lang, dưới chân cầu thang,... hay ở trong phòng giải lao vậy.
-Vâng, nhưng cô không e ngại gì à?
-Có gì phải ngại? Mười ngày nữa tôi đã đi. Vả lại, lúc đó chàng học viên này bị nhà trường nhốt chặt rồi còn gì.
-Vâng...Tôi...điều tôi muốn nói là...

Thứ Tư sau, Jenny đóng vai Xelimen, mặc dù không cố ý, vẫn có vẻ như khao khát muốn được làm đẹp lòng con người chưa quen biết. Giờ nghỉ, khi vào hậu trường, cô có cảm giác bị cuốn hút, gần như lo âu. Cô ngồi ở phòng giải lao và đợi. Một vài người quen lượn lờ xung quanh. Ông giám đốc thì đang nói chuyện với Blăng Pecxong, lúc bấy giờ đang là tình địch của Jenny. Mãi chẳng thấy bộ quân phục màu vàng đen xuất hiện. Mỗi lúc cảm thấy một bồn chồn, rồi không giữ nổi kiên nhẫn, cô chạy đễn chỗ người dẫn khách:
-Không ai hỏi tôi sao?
-Thưa cô, không.
-Hôm nay đúng là thứ Tư, thế mà tôi chẳng hề nhận được những bông hoa violet. Hay là ông Bécna quên không đưa lên chỗ tôi?..Hoặc giả có sự nhẫm lẫn nào chăng?
-Nhầm lẫn? Nhầm lẫn thế nào được ạ, cô có cần tôi đến tận chỗ người gác cổng để xem lại không ạ?
-Vâng, ông vui lòng đi giúp...Nhưng mà thôi. Để tôi đi hỏi ông Bécna.

"Thế quái nào mà"..cô tự chế nhạo mình. Suốt sáu tháng trời mình hầu như không hề để ý đến tấm lòng thủy chung kín đáo ấy, thế rồi bỗng nhiên, vì không thể cứ hững hờ mãi, bây giờ mình lại bối rối như chờ đón người yêu...Ôi, Xelimen, cô sẽ luyến tiếc Anzét biết bao, khi chàng từ biệt cô với nỗi đau buồn.

Sau buổi diễn, cô bước vào buồng người gác cổng.
-Thế nào ông Bécna, người tình đầu tiên của tôi đâu, sao ông vẫn chưa cho anh ấy lên chỗ tôi?
--Thưa cô, cứ như thể là cố tình ấy. Hôm nay anh ta không đến...Lần đầu tiên cô nhận tiếp anh ấy, thì cũng là thứ Tư đầu tiên kể từ sáu tháng nay, anh ta không đến.
-Thật kỳ lạ! Ông có nghĩ là anh ta có thể được báo trước và sợ không dám đến không?
-Chắc chắn là không, cô ạ...Không ai biết là cô và tôi...Cô không nói gì. Còn tôi, tôi cũng không hề nói gì, ngay cả với vợ tôi...
-Thế ông giải thích việc đó như thế nào?
-Tôi chịu...Có thể là do ngẫu nhiên. Có thể anh ta nản chí. Có thể anh ta ốm...Thử chờ đến thứ Tư sau xem thế nào.

Nhưng thứ Tư sau, vẫn chẳng thấy chàng học viên sĩ quan, cũng chẳng thấy hoa violet.
-Làm thế nào bây giờ, ông Bécna? Liệu có thể nhờ đám bạn bè tìm anh ta không?...Hay nhờ ông hiệu trưởng?
-Nhưng bằng cách nào, ngay cả tên anh ta, chúng ta cũng có biết đâu?
-Ừ nhỉ... thật chán quá! Thế là hỏng hết rồi!
-Không đâu cô ạ...Năm tháng còn dài. Cô sắp đi biểu diễn ở các nơi, còn thành công nhiều...Có gì là hỏng đâu hả cô?
-Ông nói đúng. Tôi thật là một kẻ vô ơn...Chỉ vì tôi yêu những bông hoa violet ngày thứ Tư quá đấy mà.
Ngày hôm sau, cô tạm biệt Pari, Henry Stan vẫn đi cùng với cô. Ở khách sạn, buồng nào của Jenny cũng đầy hoa hồng. Khi trở lại Pari, cô đã quên chàng sĩ quan lãng mạn của mình.

Một năm sau, cô nhận được một lá thư của ông đại tá Jơnơvie nào đó, xin đựoc gặp vì công việc riêng. Một bức thư hoàn toàn đứng đắn. Không có lý do gì để chối từ cuộc gặp gỡ. Jenny mời ông đại tá đến nhà cô vào một buổi chiều thứ bảy. Ông đến với bộ quần áo thường phục màu đen. Jenny đón tiếp ông bằng vẻ duyên dáng thường thấy trên sân khấu hơn là trong cuộc sống bình thường, nhưng trong thái độ của cô, tất nhiên, vẫn toát lên một câu hỏi ngầm: "Vị khách chưa quen này muốn gì đây?" Cô chờ đợi.
-Xin cảm ơn cô đã tiếp tôi, tôi không thể nào giải thích qua thư mục đích cuộc viếng thăm này. Nếu như tôi đã tự cho phép mình xin gặp cô, thì xin cô hiểu cho rằng đó không phải là một người đàn ông có ý nghĩ táo bạo ấy, mà là một người cha... Cô trông thấy tôi mặc đồ tang đấy. Tôi để tang đứa con trai tôi, trung úy Andre Jơnơvie, chết tại Mađagasca cách đây hai tháng.
Jenny làm một cử chỉ dường như muốn nói: "Xin chia buồn cùng ông với tất cả tấm lòng, nhưng..."
-Cô không biết con trai tôi...Tôi biết mà...Nhưng nó biết và ngưỡng mộ cô...Điều này với cô, có vẻ như khó tin...nhưng tất cả những gì nói sau đây đều là sự thật...Cô là người mà con tôi ngưỡng mộ và yêu mến nhất trên đời này...
-Tôi sợ là tôi không thể hiểu được...ngài đại tá ạ. Anh ấy nói với ngài như vậy à?
-Với tôi ư? Không...Nó đã nói điều đó với chị nó, người bạn tâm tình của nó...Mọi chuyện bắt đầu vào cái hôm hai chị em nó đi xem "Trò chơi của tình yêu và của Ngẫu nhiên" Các con tôi về nhà nói đến cô một cách hào hứng: "Sự e thẹn thật là tinh tế", "Lời thơ thật là xúc động"...Hàng nghìn điều khác nữa, mà tôi tin là có thật. tôi không hề nghi ngờ một chút nào, nhưng những điều ấy chỉ có thể có với nhiệt tình của tuổi trẻ, lòng khát khao lý tưởng...Con trai tội nghiệp của tôi vừa mơ mộng lại vừa lãng mạn.
-Trời ơi! Vậy chính là chàng trai...-Jenny thốt lên.
-Vâng, thưa cô, người học viên mà mỗi thứ Tư trong cả một năm trời đã mang đến cho cô những bó hoa violette, chính là André, con trai tôi...Cả điều này nữa tôi biết được cũng là do con gái tôi...Tôi hy vọng cái trò trẻ con ấy, như một lời ca ngợi không làm cô phật ý. Nó yêu cô ghê gớm, cô, hoặc cũng có thể là hình ảnh mà nó tạo nên từ cô... Chị của nó đã phải chạy vạy vất vả để có thể kiếm thêm được cho nó những bức ảnh của cô từ những người thợ ảnh...Ở trường nó bị bạn bè chế giễu vì tình yêu này...Họ bảo nó: "Vậy thì sao không viết thư cho cô ấy đi."
-Thế tại sao anh ta không viết?
-Nó đã viết, cô ạ, tôi có mang đây cho cô một chồng thư chưa bao giờ gửi mà chúng tôi đã tìm thấy sau khi nó mất đi.

Ông đại tá lấy từ trong túi ra một bó thư và đưa cho Jenny xem. Về sau bà có cho tôi xem, nét chữ nhỏ, thoắng, khó đọc...Kiểu chữ của những nhà toán học, cách hành văn của một nhà thơ.
-Xin cô hãy giữ những lá thư này, nó là của cô... Và xin cô hãy tha thứ cho chuyện kỳ quặc này...Tôi nghĩ là vì bổn phận của tôi đối với kỷ niệm của con trai tôi...Trong tình cảm mà cô đã khơi dậy trong nó, không có gì là thiếu tôn trọng hay dễ dãi. Với nó, cô là biểu hiện của sự hoàn nảo và duyên dáng...Và tôi xin cam đoan với cô là André cũng xứng đáng với tình yêu cao cả của nó.
-Nhưng tại sao anh ấy không đòi được gặp tôi? Tại sao bản thân tôi cũng không tìm cách để gặp anh ấy?...Tôi thật đáng trách. Tôi thật đáng trách quá...
-Đừng tự trách móc mình, cô ạ. Cô đã không thể tưởng tượng ra...Nếu như khi ra trường, Andre xin được phân đi Madagascar, đó chính là vì cô, chắc chắn là như vậy...Đúng thế, nó đã nói với chị nó: "hoặc là em sẽ thoát khỏi tình yêu vô vọng này do xa cách, hoặc em sẽ làm nên sự nghiệp, và khi đó..."
-Đó không phải là những điều vĩ đại sao, lòng chung thủy ấy, tình kiên nhẫn ấy, và sự kín đáo ấy!-Jenny thốt lên.
Ông đại tá đứng lên. Jenny cầm lấy tay ông.
-Tôi nghĩ là tôi đã không làm điều gì xấu, tuy nhiên... có lẽ tôi cũng phải có bổn phận đồi với người đã khuất, than ôi, vong hồn chưa được thỏa...Hãy nghe tôi, ngài đại tá, xin ngày hãy nói cho tôi biết nơi con trai ngài được chôn cất...Tôi xin thề với ngài là cho đến cuối đời, tôi sẽ đến, vào mỗi thứ Tư, đặt trên nấm mộ của anh ấy một bó hoa violette.

-Và đó là lý do tại sao-  Léon Laurent kết luận-lý do tại sao trong suốt cuộc đời mình, Jenny của chúng ta trở nên hay hoài nghi, cảm thấy vỡ mộng, một vài người thậm chí còn nói là trắng trợn, và con người đó cứ mỗi thứ Tư, lại từ bỏ bạn bè, công việc, và đôi khi cả tình yêu để một mình đi đến nghĩa trang Monparnasse, đến bên nấm mộ người trung úy không bao giờ quen biết...Các vị có thấy là tôi có lý không, khi tôi nói rằng câu chuyện này là quá đậm màu tình cảm đồi với thời đại chúng ta.

Một phút im lặng, rôi Betran Smit nói:
-Vẫn luôn có những điều thơ mộng trên đời này cho những ai xứng với nó.

 

Photobucket

 

 

Đọc tiếp ...

Quán cà phê sách HOA VIOLET NGÀY THỨ TƯ

Photobucket

Photo by Gioheomay

Hội ngộ dã quỳ chỉ có 3 ngày, chúng tôi đến quán cà phê sách Hoa violet ngày thứ tư những hai lần. Đó là một trong những ngôi biệt thự xưa kiểu Pháp nằm trên đường Trần Hưng Đạo, có một khung cửa sổ với dây leo xanh mà ai cũng muốn ghé vào để chụp ảnh. ( Nhưng tấm ảnh đẹp nhất đã được chụp ở đây có lẽ là ảnh Quỳnh Trang trong entry John vàng và áo hồng cánh sen ở nhà Chuột siu quậy).

Photobucket

Photo by Minhtmap

Có một chiếc xích đu xinh xắn mà ngay lúc này bụi dã quỳ phía sau đã làm cái góc đó không thể nào hoàn hảo hơn được.

Photobucket

Photo by GM

Có những kệ sách rải rác trong phòng uống cà phê

Photobucket

Photo by GM

Trước khi đi đến đó một người bạn trong đoàn đã hỏi tôi về tên của quán, tôi đã láu táu giải thích đó là tên một truyện ngắn lãng mạn của tác giả người Pháp ANDRÉ MAUROIS. Và tôi đã nhanh nhẩu kể tóm tắt truyện ngắn đó trong vòng 5 phút trong lúc xe đưa chúng tôi đi một vòng quanh hồ Xuân Hương:

Có một anh lính say mê một cô ca sĩ nổi tiếng, chiều thứ tư nào anh cũng mang đến nhà hát tặng cô một bó hoa violet, nhưng chẳng bao giờ đến gần được vì có rất nhiều người giàu có vây quanh nàng, tuy nhiên những bó hoa violet chiều thứ tư đều đặn cũng làm cô để ý dù chỉ thoáng qua, cho đến một ngày cô chợt nhận ra không có hoa violet cho mỗi chiều thứ tư nữa, nhưng chỉ ưu tư thoáng chốc rồi cô cũng quên đi vì quanh cô lúc nào cũng đầy quà tặng. Cho đến một ngày cha của người lính trẻ đến trao lại cho cô nhật ký của anh vì anh đã hy sinh. Cô đọc nhật ký và ân hận vì nỗi vô tình của mình, từ đó cho đến 50 năm sau khi tóc đã bạc phơ mỗi chiều thứ tư cô vẫn mang một bó hoa violet đến mộ anh lính trẻ...

Sau khi dứt lời, tôi nhận ra ngay là tôi đã kịp... giết nhà văn André Maurios một lần nữa! Làm sao mà lại có thể tóm tắt một truyện ngắn hay như thế chỉ trong 5 phút cơ chứ. Tôi tiếc lắm, tôi rất thích truyện ngắn này và trong 5 phút láu táu đó có thể tôi đã làm cho ít nhất 7 độc giả ngồi trên xe thờ ơ với Hoa violet ngày thứ tư vì cái việc tóm gọn rất ư là không lãng mạn như thế.

Trở về Sài Gòn, tôi tìm trên kệ sách, có một cuốn Hoa violet ngày thứ tư, tôi mua từ năm 1999, sách đã ngả vàng, nhưng làm sao khi chỉ một cuốn sách mà có rất nhiều bạn.

Photobucket

Tôi đi tìm trên mạng, và thật là may ! Một bạn đọc tên NGUYỄN YÊN SƠN, có lẽ anh rất mê nhà văn André Maurois, anh đã kiên nhẫn ngồi gõ lại hầu hết các truyện ngắn của nhà văn và đưa lên đường link:

 vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=486559

để mọi người có thể đọc.

Nhưng tôi vẫn muốn giới thiệu cho các bạn tôi truyện ngắn này nên rất cám ơn và xin phép anh Nguyễn Yên Sơn cho tôi mang về nhà tôi.

 

Photobucket

Photo by Trần Đức Tài

Nếu sau entry này mà các bạn vẫn thấy thích thì xin mời đọc Hoa violet ngày thứ tư tôi đã để sẵn trong nhà tôi.

  

 

Đọc tiếp ...

Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2011

THÁNG 11... NHỚ NHỮNG NGÀY ĐẦU ĐI DẠY HỌC

Năm 1975, tôi có hai năm học bổ túc dành cho tất cả những ai đã học các môn Khoa học Xã hội và tôi ra trường Sư phạm năm 1977, thời gian chờ quyết định nhận nhiệm sở là lúc lớp tôi liên tục tổ chức tiệc chia tay… Sài Gòn. Hôm thì nhà đứa này nấu cháo huyết, hôm thì nhà đứa kia chiên bánh cay…, bởi vì theo như những lời đồn thổi thì sẽ có 80% giáo sinh ra trường về các tỉnh phía Nam nhận nhiệm sở. Riêng tôi thì gia đình cũng chuẩn bị tư tưởng cho tôi khá kỹ về chuyện đi dạy học xa nhà, ba tôi mua cho tôi một bộ tiểu thuyết Xa Mạc-Tư-Khoa khổ 20x12 dầy cộp, má tôi soạn đi soạn lại những đồ đạc cần đem theo, tôi thì liên tục viết lưu bút chia tay bạn bè... Nhưng bộ Xa Mạc-Tư-Khoa tôi đọc vừa xong thì lại nhận quyết định dạy học tại Sài Gòn. Ngôi trường mà trước đây ngày nào tôi cũng đi ngang qua và chẳng bao giờ tôi nghĩ sẽ dạy học ở đây.

 Ngày 15-4-1977, tôi đi nhận nhiệm sở, tôi chọn cái áo dài lụa trắng thích nhất để mặc, kết quả là bác bảo vệ không cho tôi vào… vì không có phù hiệu, sau khi biết là giáo viên bác đã rối rít xin lỗi, tôi cười vui vẽ nói không có chi nhưng tự nhủ tôi sẽ chỉ mặc áo dài màu khi đi dạy.

 

Photobucket

 

 

Ngôi trường cả cấp II và cấp III, khoảng trên dưới 250 lớp và có gần 300 giáo viên, những ngày đầu tôi gần như không dám vào phòng giáo viên, kiếm cớ lân la ở thư viện. Đông giáo viên như vậy mà vẫn thiếu nên tôi được phân công buổi sáng dạy khối lớp12 và buổi chiều khối lớp 7. Rút kinh nghiệm chuyện áo dài trắng, giờ đầu tiên lên lớp, một lớp 12 khối D, tôi mặc áo dài tơ vàng, tóc bới cao cho giống… mệ, khi chuông reng báo giờ lên lớp, chắc nhìn mặt tôi thấy ngơ ngơ tội nghiệp, một đàn anh cùng tổ bộ môn chuyên ngậm píp thuốc lá trong giờ ra chơi cho tôi một lời khuyên: “Muốn nói cho bọn cấp III này nghe lời thì em phải nhìn vào mắt chúng nó mà nói nhé, nhìn tránh đi chỗ khác thì em không dạy nổi chúng nó đâu”. Tôi mang theo lời tư vấn đầu tiên, bước những bước chân nhẹ nhàng lên lớp, gót giày cao gót nghe lốp cốp các bậc cầu thang. Tôi vừa xuất hiện ở cửa lớp, bọn học sinh đồng loạt đứng dậy, lô nhô… như một cái rừng, tôi đĩnh đạc bước lên đầu bục giảng ở cửa lớp để đi lại bàn giáo viên, trong khung cảnh im ắng đó ở cuối lớp bỗng vang lên một câu “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc”, và tiếp theo là sự yên lặng, không một tiếng cười khúc khích lẽ ra phải có, cha mẹ ơi, cái bục giảng nằm theo chiều ngang lớp chỉ độ 10 m, nhưng tôi đi hoài mà chẳng thấy đến được bàn giáo viên, chân chỉ chực khuỵu xuống, đôi giày cao gót gõ lốc cốc kiêu hãnh vài phút trước đây bây giờ chỉ làm tôi muốn… té. Bước được đến bàn giáo viên tôi phải đứng dựa vào bàn để trấn tĩnh, và bây giờ cái rừng người đó đều đồng loạt ngước nhìn tôi với ánh mắt ngây thơ… vô số tội, thật tình tôi chỉ muốn tránh nhìn chúng nó, nhưng nhớ lời đàn anh ngậm píp, tôi cố nhìn thẳng vào học sinh, chúng nó cũng nhìn tôi, chân tôi run và suýt chút nữa tôi đã nhìn tránh đi nơi khác, may là có cái bàn cho tôi tựa vào, cô trò nhìn nhau chỉ vài giây nhưng tôi thấy dài lắm, tôi đã định bỏ cuộc… nhìn vào mắt nhau này. Nhưng may quá, chúng nó đã cụp mắt xuống, tôi không rầy rà tiếng nào mà chỉ gật đầu chào và nhỏ nhẹ cho các em ngồi xuống (còn sức đâu mà la rầy gì nữa, tôi chỉ mừng vì thoát được chuyện… nhìn nhau), suốt tiết dạy đầu tiên đó tôi hầu như chỉ giảng và cố viết lên bảng càng ít càng tốt, để tránh xoay lưng ra lớp, lý do là… lưng áo tơ vàng của tôi ướt đẫm mồ hôi. Chấm dứt giờ dạy, chuông ra chơi vang lên, bước ra khỏi lớp tôi chạy về phòng giáo viên và vào ngay toilet… để khóc. Chủ nhật tuần đó nhà tôi có một đoàn học sinh lộc ngộc lố nhố đến thăm, nhìn ra cổng nhà, tôi lại toát mồ hôi, nhưng hóa ra là các em đến xin lỗi.Thì ra chúng nó bắt cá với nhau xem cô giáo mới ra trường sẽ phản ứng ra sao: nam sinh thì cá là tôi sẽ khóc, nữ sinh cá là tôi sẽ… chửi. Cuối cùng chúng nó thán phục: “Cô ngon lành quá, coi cái vụ đó như phủi bụi”. Dĩ nhiên tôi dấu nhẹm chuyện khóc trong toilet. Má tôi rất vui vì mới đi dạy đã có học trò đến thăm, bà tốn hết cả nồi chè bo bo đậu đen đường tán cho chúng nó.

Nhưng có lẽ vì thế mà cô trò chúng tôi trở nên tâm đầu ý hợp. Và tôi say sưa với chuyện dạy học của mình, nửa năm học đầu tiên 1977-1978, bởi tính nhiều chuyện, tôi hay thêm thắt vào bài giảng những chuyện không có trong sách giáo khoa: Giảng bài chiến thắng Hà Hồi - Ngọc Hồi, trên bản đồ tôi còn chỉ thêm một con đường ngược từ Thăng Long về Phú Xuân mà ngày mùng 5 Tết, Quang Trung theo đó gởi về cho vợ một cành đào để công chúa Ngọc Hân đỡ nhớ quê nhà. Trong cuộc chiến Nguyên Mông, sách giáo khoa chẳng có chữ nào về danh tướng Phạm Ngũ Lão, tôi cũng mất thêm 5 phút quý báu của 1 tiết lên lớp để kể chuyện ông ngồi đan sọt mãi lo nghĩ chuyện nước mà giáo đâm vào đùi chảy máu cũng không hay. Hoặc bài người nông dân áo vải chống quân Minh tôi phải rán chứng minh cho học sinh thấy cụ Nguyễn Trãi làm quân sư cho Lê Lợi cũng không kém chi Gia Cát Lượng phò Lưu Bị với chi tiết cụ cho lấy mật mía viết từng chữ lên lá cây rồi bỏ vào rừng cho kiến đục thân lá, sau đó thả xuống suối, người dân nhặt được lá xếp lại thành ra câu sấm truyền “Lê Lợi vi quân – Nguyễn Trãi vi thần”. Tóm lại thường thì khi tiếng chuông ra chơi hoặc chuyển tiết vang lên, hành lang nhộn nhịp giáo viên, học sinh qua lại thì lớp tôi dạy lúc nào cũng im ỉm cửa vì tôi đang… cháy giáo án bên trong. Học kỳ I kết thúc, chuyện thường xuyên cháy giáo án của tôi bị nêu ra, Khối thì sợ mất điểm thi đua,Tổ bộ môn sợ mất chỉ tiêu tiên tiến… Tôi được Ban Giám Hiệu mời làm việc với lời nhắc nhở rằng nếu không thực hiện đúng 5 bước lên lớp, tôi sẽ bị coi là không đủ… khả năng chuyên môn. Vậy là chấm dứt những chuyện ngoài giáo án.

Không nói được trong giờ, thì nói ngoài giờ, năm đó tôi làm giáo viên chủ nhiệm lớp 11 A (ban Văn-Sử-Ngoại ngữ), học trò cũng rất mê Sử, vậy là chúng tôi tổ chức một buổi sinh hoạt ngoại khóa trao đổi về môn Sử: “ Phan Thanh Giản: Công hay tội?”. Vấn đề này, bây giờ năm 2011, nói ra thấy bình thường, đó là trao đổi tranh luận về lịch sử, với các tư liệu lịch sử chính thống gần như đầy đủ trong thư viện. Nhưng năm 1978, khi mà tài liệu lịch sử duy nhất trong thư viện là sách giáo khoa mà sách giáo khoa  là pháp lệnh, và trong đó ghi ràng ràng: “Phan Lâm mãi quốc; Triều đình thí dân” (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp), thì một cuộc ngoại khóa với cái tên như vậy đủ khả năng cho sự nghiệp dạy học của tôi dừng lại ngay từ giờ phút đó, nhưng tôi – một con nhãi ranh điếc không sợ súng – nên cứ ngơ ngơ tiến hành. Cũng may ông bà phù hộ tôi, nên dù tôi đã có lễ phép đến mời từ Ban Giám Hiệu, đến Tổ trưởng bộ môn,Trưởng khối chuyên môn và các giáo viên đồng nghiệp trong tổ, nhưng chắc ai cũng thấy chẳng nên mất thì giờ với một cô nhóc mới ra trường như tôi nên chẳng ai đến dự, thành ra cũng chẳng ai biết chúng tôi đã làm gì, trừ ông đàn anh ngậm píp. Chỉ với sách giáo khoa nhưng các học trò của tôi cũng tranh luận rất sôi nổi, phe bảo có tội vì đã làm mất 6 tỉnh miền Nam, phe nói có công kể ra những chuyện thanh liêm, thương dân và đã nhất là ông đã tự vẫn sau khi làm mất 6 tỉnh… Giá như ngày đó tìm ra được một bộ Đại Nam Thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn như bây giờ thì đã không phải bàn, bởi vì 10 năm sau khi cụ Phan Thanh Giản tự vẫn, năm 1886,vua Đồng Khánh đã xét lại công tội của cụ và đã ra chiếu chỉ “khai phục nguyên hàm” và khắc lại tên trong bia tiến sĩ ở Văn miếu Huế. Nhưng như đã nói – đó là năm 1978 – và  thầy trò chúng tôi đã phạm húy khi dám bàn luận về công của cụ Phan Thanh Giản, đàn anh ống píp – người duy nhất đến dự buổi ngoại khóa – khi được mời phát biểu cảm tưởng vào cuối buổi đã cười cười nhận xét về hai bông hồng được cắm rất khéo trên bàn chủ tọa, về sự lưu loát và tranh luận rất sôi nổi của các em học sinh… rồi thôi. Khi ra ngoài hành lang chỉ còn có hai anh em, anh đã gõ cái ống píp lên đầu tôi: “Này cô em, muốn đi dạy học thì không nói gì ngược lại với sách giáo khoa cả nhé! Và cũng đừng kể lể gì trong họp tổ về cái buổi này đấy!”

Vậy là theo năm tháng tôi dần dần đã đi theo cái quỹ đạo tất nhiên của chuyện dạy học: giáo án và đồ dùng dạy học đầy đủ, đúng 5 bước lên lớp, không ngẫu hứng phá cách trong giờ. Thậm chí có lúc tôi phát chán vì sự lập lại đều đều những tiết dạy. Nhưng dù có lúc mệt mõi như vậy, sau 11 năm đi dạy học, đến khi vì một việc riêng tôi chuyển ngành sang một Viện nghiên cứu KHXH. Vậy mà từ đó đến gần 20 năm sau thỉnh thoảng tôi lại bị những giấc mơ mà bạn bè gọi là “hội chứng… đi dạy học”, tôi thấy tôi đi dạy trở lại, nhưng luôn đến trường trễ giờ và không biết là sẽ dạy lớp nào, tôi đi tìm phòng giáo vụ để xem thời dụng biểu nhưng tìm mãi không ra, hoặc đã đi lên cầu thang nghe tiếng học trò đùa giỡn ầm ầm trên đó biết là lớp của mình nhưng sao đi hoài vẫn không đến lớp được, hoặc đi lên lớp nhưng không nhớ là đã dạy đến bài nào, không có một chữ nào trong đầu, không giáo án trong tay… cứ như vậy, kết thúc giấc mơ là nỗi lo sợ khiến tôi tỉnh giấc. Mọi người suy luận chắc tôi vẫn… thèm đi dạy học, trong khi tôi lại thấy tôi đã yêu thích công việc ở Viện Nghiên cứu, nhưng các giấc mơ cứ trở đi trở lại trong một thời gian dài mới chấm dứt. Tháng 11 đến, nghe các bạn blog râm ran nói chuyện trường lớp, bỗng nhớ lại cái lúc đầu tiên mình đi dạy học!

 

Photobucket

 

 

 

 

Đọc tiếp ...